Kinh tế - xã hội Biên_Hòa

Kinh tế

Biên Hòa có tiềm năng to lớn về phát triển kinh tế với nền đất lý tưởng, khí hậu thuận lợi cho việc xây dựng phát triển công nghiệp, có nguồn tài nguyên khoáng sản với trữ lượng khai thác đáng kể, nhất là tài nguyên khoáng sản về vật liệu xây dựng, thuận lợi về nguồn cung cấp điện, có nguồn nước dồi dào đủ cung cấp nhu cầu sản xuất và sinh hoạt (sông Đồng Nai), ngoài ra nguồn nhân lực với trình độ cao đã tăng cường nguồn lực con người cho yêu cầu phát triển công nghiệp hóa - hiện đại hóa.Về cơ cấu kinh tế, năm 2017 công nghiệp - xây dựng chiếm 64,08%; dịch vụ chiếm 35,84% và nông lâm nghiệp chiếm 0,08%. Tính đến năm 2018, GDP/đầu người của thành phố cao gấp hai lần GDP/đầu người của Việt Nam (khoảng 4500 USD).

Công nghiệp

Thành phố này cũng là trung tâm công nghiệp quan trọng của cả nước. Biên Hòa có thế mạnh về công nghiệp và cũng là nơi đi tiên phong trong lĩnh vực Công nghiệp đầu tiên của cả nước với việc hình thành sớm KCN Biên Hòa I (năm 1967) - Khu kĩ nghệ Biên Hòa - Khu công nghiệp đầu tiên của cả nước sau ngày đất nước Thống Nhất.

Thành phố Biên Hòa hiện có 6 khu công nghiệp[12]

  • Khu công nghiệp Biên Hòa 1/Bien Hoa I Industrial Zone 335 ha
  • Khu công nghiệp Biên Hòa 2/Bien Hoa II Industrial Zone: 365 ha
  • Khu công nghiệp Amata/Amata industrial park 674 ha
  • Khu công nghiệp Loteco/The Long Binh Industrial Zone Development: 100 ha
  • Khu công nghiệp Agtex Long Bình/Agtex Long Binh Industrial Park - AGTEX 28: 43 ha
  • Khu công nghiệp Tam Phước/Tam Phuoc Industrial Park: 323 ha

Bên cạnh ngành công nghiệp hiện đại, hiện thành phố vẫn còn một vài cụm công nghiệp truyền thống, thủ công mĩ nghệ như:

  • Cụm công nghiệp Gốm sứ Tân Hạnh: 32ha
  • Cụm công nghiệp Dốc 47: 97ha
  • Cụm công nghiệp chế biến gỗ Tân Hòa: 39ha
  • Vùng thủ công mĩ nghệ đá Bửu Long
  • Vùng sản xuất gốm Tân Vạn, Bửu Long, Hiệp Hòa
  • Vùng sản xuất đồ gỗ và trang trí nội thất gồm Tân Hòa, Tân Biên

Tài chính - Thương mại

Tài chính ngân hàng cũng là thế mạnh kèm theo do sự phát triển công nghiệp mang lại, hằng năm tỉ trọng dịch vụ tài chính được nâng dần và thay thế cho công nghiệp, bước khởi đầu cho một thành phố phát triển của khu vực. Biên Hòa có hơn 39 hệ thống ngân hàng của các ngân hàng trong nước, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Với hơn 51 chi nhánh (CN), 92 phòng giao dịch (PGD), 27 quỹ tiết kiệm (QTK), trên 300 máy ATM.

Ngành thương mại cũng là điểm sáng trong phát triển kinh tế, với hệ thống Trung tâm thương mại, siêu thị lớn của Big C, Mega Market, Co.op Mart, Lotte, Vincom Plaza... cùng một số hệ thống siêu thị Điện máy, Nội thất lớn, cửa hàng điện tử, điện thoại máy tính có uy tín cũng có mặt tại đây. Ngoài ra, các chợ truyền thống cũng là nét đặc trưng nơi đây, nhiều chợ khá nổi tiếng như Chợ Biên Hòa, Chợ Tân Hiệp, Chợ Long Bình,...

Những năm gần đây, các thương hiệu bán lẻ đã bắt đầu cạnh tranh, mở rộng thị trường, tính đến thời điểm 6/2019, Thành phố Biên Hòa có 25 cửa hàng Bách Hóa Xanh, 38 cửa hàng Vinmart+, 10 cửa hàng Co.op food.

Nông lâm ngư nghiệp

Nền nông nghiệp hiện đại theo sự phát triển đô thị, với việc cung cấp rau sạch xanh quy mô lớn cho thị trường thành phố Biên Hòa và lân cận. Hệ thống rừng phòng hộ tại Thành phố 1 triệu dân này đang được chú trọng phát triển và bảo vệ vì đây là "lá phổi xanh" nằm rải rác ở phường Tân Biên và phường Phước Tân. Về thủy sản, thành phố cũng còn một vài phường xã ven sông có bè cá.

Xã hội

Giáo dục

Do vị trí gần thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm giáo dục của cả nước nên vì vậy mà thành phố Biên Hòa khá ít trường đại học và thêm nữa là trung tâm hành chính, chính trị, văn hóa, kinh tế, giáo dục của tỉnh Đồng Nai nên các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp của Đồng Nai hầu như đều nằm ở Biên Hòa. Ngược lại, thành phố Biên Hòa có rất nhiều trường THPT, THCS, TH và phân bố ở rất nhiều khu vực trong thành phố phục vụ cho nhu cầu dân số quá tải của thành phố Biên Hòa. Tuy nhiên hiện nay do dân số tăng đột biến nên những năm gần đây có một số trường tiểu học phải học ca 3, đây là vấn đề nan giải của ngành giáo dục Biên Hòa. Dân số như hiện nay đang là thách thức không chỉ của ngành giáo dục mà còn là vấn đề cho các ban ngành và Ủy ban Nhân dân Thành phố.

Thành phố ngày càng phát triển đã sinh ra nhiều Hệ thống trường dân lập liên cấp theo tiêu chuẩn chất lượng đào tạo tương đương các trường công lập và theo chuẩn quốc tế để đáp ứng cho nhu cầu học tập cho học sinh trên địa bàn thành phố Biên Hòa.

Hiện thành phố có trường Đại học:

Ngoài ra thành phố có các trường Cao đẳng lớn:

  • Cao đẳng Hòa Bình Xuân Lộc
  • Cao đẳng Kỹ thuật Đồng Nai
  • Cao đẳng Y tế Đồng Nai (Đề án nâng cấp lên Đại học Y dược Đồng Nai)
  • Cao đẳng Mỹ thuật Trang trí Đồng Nai (Đề án nâng cấp lên Đại học Mỹ thuật Đồng Nai)
  • Cao đẳng Công nghệ và quản trị Sonadezi (Đề án nâng cấp lên Đại học Sonadezi)
  • Cao đẳng nghề Số 8.

Y tế

Thành phố có 30 trạm y tế của 30 phường xã được xây dựng và trang bị hiện đại phục vụ nhân dân tại các phường xã trong thành phố và Trung tâm y tế Thành phố Biên Hòa với hơn 8000 giường bệnh. Bên cạnh đó, một số Bệnh viện lớn của nhà nước đã hình thành và phát triển như:

  • Đa Khoa Đồng Nai[13]: Là bệnh viện hạng I tuyến tỉnh, quy mô 1400 giường.
  • Đa Khoa Thống Nhất[14]: Là bệnh viện hạng I tuyến tỉnh, quy mô 1000 giường.
  • Nhi Đồng Đồng Nai[15]: Là bệnh viện hạng II tuyến tỉnh, quy mô 740 giường bệnh nội trú.
  • Đa Khoa Biên Hòa: 100 giường.
  • Y Dược Cổ truyền Đồng Nai: 150 giường
  • Da Liễu Đồng Nai: 100 giường
  • Phổi Đồng Nai: 150 giường
  • Đa Khoa 7B: 600 giường
  • Tâm thần Trung ương 2: 1200 giường

Ngoài ra, một số Bệnh viện ngoài công lập đã hình thành và phát triển:

  • Quốc tế Hoàn Mỹ Đồng Nai (Tập đoàn Y Khoa Hoàn Mỹ): 400 giường
  • Quốc tế Chấn Thương Chỉnh Hình ITO Sài Gòn-Đồng Nai (Tập đoàn Y Khoa Hoàn Mỹ): 160 giường
  • Đa Khoa Tâm Hồng Phước: 120 giường
  • Phụ sản Âu Cơ Biên Hòa: 80 giường
  • Phụ sản Nhi Đa Khoa Sài Gòn-Đồng Nai
  • Chuyên khoa Răng Hàm Mặt Việt Anh Đức: 21 giường
  • Đa khoa ShingMark: 1500 giường
  • Đa khoa Lê Quý Đôn (đang xây dựng): 500 giường.